Kết hôn Người_Việt_tại_Đài_Loan

Mặc dù bất hợp pháp, các dịch vụ làm mai mối quốc tế vẫn phổ biến tại Việt Nam; tính đến năm 2005, 118.300 phụ nữ Việt Nam, phần lớn từ miền Nam, đã kết hôn với người Đài Loan. Từ năm 2001, phụ nữ Việt Nam đã chiếm 49% số cô dâu nước ngoài tại Đài Loan. Tuổi trung bình của họ là giữa 25 và 26 tuổi, trong khi tuổi trung bình của chú rể là 36; 54% đến từ Thành phố Hồ Chí Minh. 73% là người Kinh, trong khi số còn lại 27% là người Hoa[5]. 72.411 (60%) trong tất cả các cô dâu Việt Nam tại Đài Loan trong năm 2005 đã kết hôn trong vòng 10 năm trước. Phụ nữ Việt Nam cưới chồng Đài Loan chiếm 85% trong số 11.973 người nhập quốc tịch Trung Hoa Dân quốc năm 2006.

Chính phủ Việt Nam đã tạo một số quy định về hôn nhân quốc tế giữa 2002 và 2005, trong đó có việc cấm kết hôn nếu chênh lệch tuổi quá cao, và đòi hỏi các người cưới nhau phải có một ngôn ngữ tương đồng.

Chính phủ Trung Hoa Dân quốc cũng muốn hạn chế việc di cư theo diện hôn nhân, nhưng khác với chính phủ Việt Nam, chỉ có thể sửa đổi chính sách thị thực. Họ đã thay đổi chính sách này: trước kia họ đã phỏng vấn từng người để cấp thị thực, rồi đổi thành phỏng vấn nhóm vào năm 1999; năm 2005, họ hạn chế 20 lần phỏng vấn mỗi ngày. Đến năm 2007, số cô dâu đã giảm bớt từ cao điểm 14.000 mỗi năm thành 1/3 số lượng đó[6].

Theo Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tị nạn, khoảng 3.000 phụ nữ Việt Nam từng kết hôn với người Đài Loan đã trở thành người không có quốc tịch sau khi ly dị; họ đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam để nhập tịch Trung Hoa Dân quốc sau khi lấy chồng, nhưng lại trở về Việt Nam sau khi ly dị và từ bỏ quốc tịch Trung Hoa Dân quốc khi điền đơn xin lại quốc tịch Việt Nam. Con cái họ, vì chỉ có quốc tịch Trung Hoa Dân quốc và chưa bao giờ từng có quốc tịch Việt Nam, không thể nhập học trong các trường công tại Việt Nam[6].